Phật Pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe thấy chuyên trì tụng
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
1. Lăng nghiêm tâm chú (đọc 3 lần)
Om, a na lê, a na lê, wí sha đê, wí sha đê, wía ra wa cha đa rê, bàn đa, bàn đa ni, wa cha pa, ni pặt. Hờ hùm, tờ rùm ! pặt xoa ha.
2. Chú đại bi (đọc 3 lần)
Nam-mô Đại-bi Hội-Thượng Phật Bồ-tát (3 lần).
Thiên thủ thiên nhãn, vô ngại Đại-bi tâm đà-la-ni.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.
Nam mô a rị da bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da.
Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha.
Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô, kiết mông độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra.
Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha.
Tất đà dạ, ta bà ha.
Ma ha tất đà dạ, ta bà ha.
Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha.
Na ra cẩn trì, ta bà ha.
Ma ra na ra, ta bà ha.
Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha.
Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha.
Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha.
Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha.
Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha.
Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.
Án, tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ ta bà ha. (3 lần khi trì biến cuối cùng)
3. Thanh tịnh minh hối thứ nhất: Không dâm dục
Đức Phật bảo ngài A Nan: Ông thường nghe Ta tuyên thuyết ba nghĩa quyết định của sự tu hành trong Tỳ nại da. Đó là: Nhiếp tâm là giới, do Giới sanh Định, do Định phát Huệ. Đó gọi là Tam Vô Lậu Học. A Nan! Vì sao Ta gọi nhiếp tâm là Giới?
Nếu chúng sanh trong Lục đạo ở các thế giới mà tâm không dâm dục thì sẽ không bị cuốn theo dòng sanh tử tương tục. Ông tu pháp Tam muội vốn để thoát trần lao. Nhưng nếu không trừ bỏ tâm dâm dục thì chẳng thể ra khỏi trần lao. Dầu có đa trí, Thiền định hiện tiền, mà nếu chẳng dứt trừ dâm dục tất sẽ lạc vào Ma đạo. Thượng phẩm thì làm Ma vương, trung phẩm thì làm ma dân, hạ phẩm thì làm ma nữ. Những loại ma ấy cũng có đồ chúng, tất cả đều tự xưng đã thành tựu Đạo Vô thượng.
Sau khi Ta diệt độ. Trong thời Mạt Pháp sẽ có nhiều loại ma dân ấy hiện ra đông đảo ở thế gian, mở rộng sự tham dâm. Lại tự xưng là Thiện tri thức, khiến cho chúng sanh bị sa vào hầm ái kiến; Lạc mất con đường Bồ đề.
Vậy ông dạy người đời tu pháp Tam Ma Địa, trước hết phải dứt trừ tâm dâm dục. Đó là lời minh huấn quyết định thứ nhất về tánh thanh tịnh của Như Lai và chư Phật, Thế Tôn thuở trước.
Cho nên, A Nan! Nếu kẻ tu Thiền định mà không dứt trừ dâm tâm thì cũng như nấu cát sạn mà muốn thành cơm. Dầu có trải tới trăm ngàn kiếp cũng chỉ gọi là sạn nóng. Vì sao? Vì đó không phải là gốc của cơm, mà chỉ là cát sạn!
Ông lấy dâm thân mà cầu diệu quả của Phật, cho dẫu có đắc diệu ngộ thì cũng đều là dâm căn. Căn bổn đã thành dâm, tất phải luân chuyển trong Tam đồ, không thoát ra được. Thế thì Niết bàn của Như Lai do đường nào mà tu chứng? Phải làm cho dâm cơ của thân và tâm đều dứt. Và tánh ‘dứt’ ấy cũng không còn, thì mới mong đạt được quả Bồ đề của Phật.
Như lời Ta nói đây mới gọi là lời Phật nói. Nếu chẳng nói như vậy, tức là lời của Ma Ba Tuần.
4. Cung kính niệm Quan Thế Âm Bồ Tát:
Nếu có chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền đặng ly dục.
Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát (108 lần)
Hãy vượt qua, vượt qua đi, qua bờ bên kia đi, qua bờ bên kia hoàn toàn đi thì sẽ đạt đến giác ngộ.